Mỗi dịp Tết đến, xuân về, bên cạnh những sản vật quen thuộc như mâm ngũ quả, hoa đào, hoa mai,… thì mỗi gia đình Việt đều không thể thiếu ấm trà thơm nồng, làm ấm lòng người và thể hiện sự trang trọng của gia chủ bên bàn tiếp khách.
Theo nghệ nhân Trường Xuân, người đã đeo đẳng cả cuộc đời mình với nghiệp làm trà để lưu giữ và truyền lại trà đạo Việt: “Cuộc đời vốn nhiều dâu bể, cái chính là tâm phải bình an. Thưởng trà là một cách để tĩnh tâm, để thiền. Đạo của trà Việt nằm ở cái tâm, cái thế của người pha cũng như người thưởng thức.”
Nét tinh tế của đạo trà truyền thống
Đạo trà Việt truyền thống không mang vẻ cầu kì như trà đạo của Nhật Bản hay sự phức tạp như nghệ thuật trà kinh của Trung Quốc, và cũng không thực dụng như trà phương Tây. Nó giản dị, đơn sơ mà vô cùng thanh tịnh. Thưởng trà ngày xuân để giao hòa với trời đất, gần gũi hơn với thiên nhiên và để tìm lại con người thật của chính mình.
“Nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ấm” đã trở thành câu nói quen thuộc để nói về những nhân tố làm nên một ấm trà ngon đích thực. Vào ngày Tết, các nghệ nhân, những bậc cao niên đất Hà Thành vẫn dày công ướp, thưởng trà theo cách truyền thống và có một sự ưu tiên đặc biệt đối với trà ướp hoa sen.
Theo nghệ nhân Trường Xuân, dòng trà ướp hoa sen Hồ Tây vẫn được ví như “báu vật” của người Hà Nội bởi sự cầu kì trong các công đoạn. Trà để ướp hoa sen phải là loại trà Tuyết Shan cổ thụ vùng mạn ngược Hà Giang mọc tự nhiên trên những dãy núi cao từ 800-1300m quanh năm sương mù.
Các nghệ nhân chọn lựa những búp trà non, những lá trà bánh tẻ, rồi rửa sạch, cho vào chõ đồ chín. Sau khi phơi khô, họ cho trà vào chum (vại), trên phủ một lớp lá chuối khô, ủ từ 3-4 năm cho trà phong hóa bớt chất chát, có độ xốp như giấy bản mà hương vị đặc trưng của trà vẫn lưu giữ được nguyên vẹn.
Ướp và sấy trà là cả một quy trình nghệ thuật. Để ướp một cân trà cần dùng từ 1000-1200 bông sen. Khi ướp, các nghệ nhân thường trải đan xen một lớp trà rồi đến một lớp gạo sen mỏng, sau cùng phủ một lớp giấy bản. Thời gian ướp tùy thuộc vào độ ẩm của gạo sen nhiều hay ít, trung bình kéo dài từ 18-24 giờ. Sau đó, người ta đem sàng để loại bỏ hết gạo sen. Nhưng để có sản phẩm chè hảo hạng, người nghệ nhân phải tiếp tục ướp thêm lần thứ hai, thứ ba, thứ tư và thậm chí là thứ năm.
Với người Việt, uống trà quả là một thú chơi thanh đạm, đặc biệt là trong mỗi dịp Tết đến, xuân về. Pha một ấm trà, người pha trà dồn vào đó biết bao công phu. Chúng tích tụ lại và dần trở thành những lễ nghi tao nhã.
Giảng giải với người thưởng trà, nghệ nhân Hoàng Anh Sướng, cho hay: “Các chân trà nhân từ xưa đã rất chú tâm đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều loại trà cụ (dụng cụ uống trà) cần thiết để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm giống như các thiền sư.” Mỗi bước nhỏ trong việc thưởng trà đều được định danh bằng những tên gọi riêng: “ngọc diệp hồi cung” (thao tác dùng thìa gỗ múc trà vào ấm,) “cao sơn trường thủy” (tráng trà), “hạ sơn nhập thủy” (lần đổ nước thứ hai vào trà,) “tam long giá ngọc” (dâng trà,) và “du sơn lâm thủy” (ngửi hương và uống trà.)
Mỗi bước đều đòi hỏi sự khéo léo, uyển chuyển; tiêu biểu như nghi thức rót trà và dâng trà. Rót trà cũng là một cả một nghệ thuật. Khi rót phải chuyên đều các chén, đảm bảo sao cho nồng độ trà như nhau bằng cách kê khít miệng chén lại và đưa vòi ấm quay vòng. Điều này tưởng chừng như khá đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Tất cả đều phải trải qua quá trình rèn luyện công phu.
Nghi thức “tam long giá ngọc” yêu cầu dâng chén trà theo đúng quy cách: ngón tay giữa phải đỡ lấy đáy chén, ngón trỏ và ngón cái đỡ miệng chén. Cả người dâng trà và người nhận trà đều phải cung kính cúi đầu.
Trước khi uống, người uống phải đưa chén trà sang tay trái, mắt nhìn theo, sau đó đưa sang bên phải “du sơn lâm thủy.” Khi uống, người thưởng trà phải cầm chén trà quay long bàn tay vào trong, nâng chén trà lên gần sát mũi để thưởng thức hương trà trước, rồi mới chậm rãi lấy tay che miệng nhấp từng ngụm nhỏ nhẹ.
Ở các gia đình tam, tứ đại đồng đường, sáng mùng một Tết, đại gia đình thường ngồi quanh bàn trà để chúc thọ các bậc cao niên và nghe lời dặn dò từ các cụ.
Từ truyền thống đến hiện đại
Qua bao năm tháng, nghệ thuật thưởng trà của người Việt đã có nhiều nét đổi thay. Tuy nhiên, dù ở thời đại nào, thú thưởng trà ấy vẫn luôn giữ được nét thanh đạm, sâu sắc riêng.
Trong nhịp sống gấp gáp, hối hả hiện nay, cách thức thưởng trà của người Việt cũng có ít nhiều thay đổi. Số lượng các loại trà trở nên phong phú hơn và các nghi thức thưởng trà cũng có phần đơn giản hơn. Dù bớt đi vẻ cầu kì nhưng nó vẫn không kém phần tao nhã.
Mỗi vùng miền lại có cách thưởng trà riêng. Người miền Nam thích uống trà có ép hoa sen, hoa nhài để hưởng trọn cái nồng đượm của hương hoa kết hợp với cái thanh mát của trà; và đặc biệt thích dùng trà với đá. Trong khi đó, người miền Bắc lại thích dùng trà nguyên chất và uống nóng. Còn cách thưởng trà của người miền Trung lại là sự giao thoa, kết hợp của cả hai miền Nam, Bắc.
Sự tất bật khiến, hối hả của cuộc sống khiến con người luôn thèm cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng. Trong những ngày Tết, người Việt thường có xu hướng ngồi bên nhau với ấm trà thơm nồng, cùng lắng nghe và chia sẻ tâm tình. Người ta thưởng trà ở bất cứ nơi đâu, từ không gian riêng tại tư gia hay tại những những nơi công cộng như các trà quán.
Hiện nay, những quán trà với không khí hoài cổ và yên tĩnh ngày càng thu hút nhiều ẩm khách. Không ít trà quán mở cửa xuyên suốt những ngày Tết đã trở thành điểm gặp gỡ, tâm tình đầu xuân.
Đó cũng chính là nơi lưu giữ và truyền bá nghệ thuật thưởng trà của người Việt. Người thưởng thức có rất nhiều sự lựa chọn: trà hoa sen, trà hoa nhài, trà hoa cúc, trà cung đình, long nhãn hồng táo trà,… Chúng được pha chế theo nhiều cách khác nhau để phù hợp và theo kịp với cuộc sống hiện đại: hồng trà nóng, hồng trà đá, hồng trà sữa,…
Bên cạnh đó, các loại trà thảo mộc cũng khá phổ biến với bốn vị cơ bản là ngọt, cay, đắng, chát. Không ít nơi, phong cách pha trà cầu kì, uống trà nhâm nhi đã dần được thay thế bằng việc thưởng thức nhứng túi trà lọc nhanh chóng, tiện lợi.
Dù ở thời điểm nào, thưởng trà không đơn thuần chỉ là thỏa mãn nhu cầu uống mà nó còn là nét văn hóa ứng xử. Đầu năm mới, ấm trà thơm nồng làm ấm lòng người, thay lời chúc vạn sự như ý. Bằng tách trà ấm nóng, gia chủ thể hiện lòng hiếu khách, thiện tình; và người khách cũng đáp lại tấm chân tình của người mời trà mà cởi mở, thổ lộ tâm tình.
Người tinh ý có thể nhận biết tình cảm, học vấn và xét đoán tâm lí người đối thoại khi dùng trà. Trước kia, trà được xem là thú vui tao nhã của những người lớn tuổi nhưng hiện nay, trà đang rất được giới trẻ quan tâm, tìm hiểu. Nghệ nhân Hoàng Anh Sướng cho biết, mỗi ngày, đặc biệt là vào những ngày nghỉ, cuối tuần, Hiên trà Trường Xuân thu hút cả trăm bạn trẻ đến thưởng trà và tìm hiểu về các loại trà, văn hóa uống trà.
“Cha tôi vẫn dạy, thưởng thức một chén trà mang phong cách Việt là việc mang nhiều ý nghĩa. Màu nước vàng sánh trong xanh, hương trà, hương hoa tự nhiên là hình ảnh Việt Nam với rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú. Vị đắng chát gợi lên nỗi vất vả, cần lao của người làm trà truyền thống. Hậu vị ngọt mát của trà chính là tâm hồn người Việt giàu tình nghĩa, thủy chung,” nghệ nhân Hoàng Anh Sướng nói.
Nét tinh tế của đạo trà truyền thống
Đạo trà Việt truyền thống không mang vẻ cầu kì như trà đạo của Nhật Bản hay sự phức tạp như nghệ thuật trà kinh của Trung Quốc, và cũng không thực dụng như trà phương Tây. Nó giản dị, đơn sơ mà vô cùng thanh tịnh. Thưởng trà ngày xuân để giao hòa với trời đất, gần gũi hơn với thiên nhiên và để tìm lại con người thật của chính mình.
“Nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ấm” đã trở thành câu nói quen thuộc để nói về những nhân tố làm nên một ấm trà ngon đích thực. Vào ngày Tết, các nghệ nhân, những bậc cao niên đất Hà Thành vẫn dày công ướp, thưởng trà theo cách truyền thống và có một sự ưu tiên đặc biệt đối với trà ướp hoa sen.
Theo nghệ nhân Trường Xuân, dòng trà ướp hoa sen Hồ Tây vẫn được ví như “báu vật” của người Hà Nội bởi sự cầu kì trong các công đoạn. Trà để ướp hoa sen phải là loại trà Tuyết Shan cổ thụ vùng mạn ngược Hà Giang mọc tự nhiên trên những dãy núi cao từ 800-1300m quanh năm sương mù.
Các nghệ nhân chọn lựa những búp trà non, những lá trà bánh tẻ, rồi rửa sạch, cho vào chõ đồ chín. Sau khi phơi khô, họ cho trà vào chum (vại), trên phủ một lớp lá chuối khô, ủ từ 3-4 năm cho trà phong hóa bớt chất chát, có độ xốp như giấy bản mà hương vị đặc trưng của trà vẫn lưu giữ được nguyên vẹn.
Ướp và sấy trà là cả một quy trình nghệ thuật. Để ướp một cân trà cần dùng từ 1000-1200 bông sen. Khi ướp, các nghệ nhân thường trải đan xen một lớp trà rồi đến một lớp gạo sen mỏng, sau cùng phủ một lớp giấy bản. Thời gian ướp tùy thuộc vào độ ẩm của gạo sen nhiều hay ít, trung bình kéo dài từ 18-24 giờ. Sau đó, người ta đem sàng để loại bỏ hết gạo sen. Nhưng để có sản phẩm chè hảo hạng, người nghệ nhân phải tiếp tục ướp thêm lần thứ hai, thứ ba, thứ tư và thậm chí là thứ năm.
Với người Việt, uống trà quả là một thú chơi thanh đạm, đặc biệt là trong mỗi dịp Tết đến, xuân về. Pha một ấm trà, người pha trà dồn vào đó biết bao công phu. Chúng tích tụ lại và dần trở thành những lễ nghi tao nhã.
Giảng giải với người thưởng trà, nghệ nhân Hoàng Anh Sướng, cho hay: “Các chân trà nhân từ xưa đã rất chú tâm đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều loại trà cụ (dụng cụ uống trà) cần thiết để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận và thể nghiệm giống như các thiền sư.” Mỗi bước nhỏ trong việc thưởng trà đều được định danh bằng những tên gọi riêng: “ngọc diệp hồi cung” (thao tác dùng thìa gỗ múc trà vào ấm,) “cao sơn trường thủy” (tráng trà), “hạ sơn nhập thủy” (lần đổ nước thứ hai vào trà,) “tam long giá ngọc” (dâng trà,) và “du sơn lâm thủy” (ngửi hương và uống trà.)
Mỗi bước đều đòi hỏi sự khéo léo, uyển chuyển; tiêu biểu như nghi thức rót trà và dâng trà. Rót trà cũng là một cả một nghệ thuật. Khi rót phải chuyên đều các chén, đảm bảo sao cho nồng độ trà như nhau bằng cách kê khít miệng chén lại và đưa vòi ấm quay vòng. Điều này tưởng chừng như khá đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Tất cả đều phải trải qua quá trình rèn luyện công phu.
Nghi thức “tam long giá ngọc” yêu cầu dâng chén trà theo đúng quy cách: ngón tay giữa phải đỡ lấy đáy chén, ngón trỏ và ngón cái đỡ miệng chén. Cả người dâng trà và người nhận trà đều phải cung kính cúi đầu.
Trước khi uống, người uống phải đưa chén trà sang tay trái, mắt nhìn theo, sau đó đưa sang bên phải “du sơn lâm thủy.” Khi uống, người thưởng trà phải cầm chén trà quay long bàn tay vào trong, nâng chén trà lên gần sát mũi để thưởng thức hương trà trước, rồi mới chậm rãi lấy tay che miệng nhấp từng ngụm nhỏ nhẹ.
Ở các gia đình tam, tứ đại đồng đường, sáng mùng một Tết, đại gia đình thường ngồi quanh bàn trà để chúc thọ các bậc cao niên và nghe lời dặn dò từ các cụ.
Từ truyền thống đến hiện đại
Qua bao năm tháng, nghệ thuật thưởng trà của người Việt đã có nhiều nét đổi thay. Tuy nhiên, dù ở thời đại nào, thú thưởng trà ấy vẫn luôn giữ được nét thanh đạm, sâu sắc riêng.
Trong nhịp sống gấp gáp, hối hả hiện nay, cách thức thưởng trà của người Việt cũng có ít nhiều thay đổi. Số lượng các loại trà trở nên phong phú hơn và các nghi thức thưởng trà cũng có phần đơn giản hơn. Dù bớt đi vẻ cầu kì nhưng nó vẫn không kém phần tao nhã.
Mỗi vùng miền lại có cách thưởng trà riêng. Người miền Nam thích uống trà có ép hoa sen, hoa nhài để hưởng trọn cái nồng đượm của hương hoa kết hợp với cái thanh mát của trà; và đặc biệt thích dùng trà với đá. Trong khi đó, người miền Bắc lại thích dùng trà nguyên chất và uống nóng. Còn cách thưởng trà của người miền Trung lại là sự giao thoa, kết hợp của cả hai miền Nam, Bắc.
Sự tất bật khiến, hối hả của cuộc sống khiến con người luôn thèm cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng. Trong những ngày Tết, người Việt thường có xu hướng ngồi bên nhau với ấm trà thơm nồng, cùng lắng nghe và chia sẻ tâm tình. Người ta thưởng trà ở bất cứ nơi đâu, từ không gian riêng tại tư gia hay tại những những nơi công cộng như các trà quán.
Hiện nay, những quán trà với không khí hoài cổ và yên tĩnh ngày càng thu hút nhiều ẩm khách. Không ít trà quán mở cửa xuyên suốt những ngày Tết đã trở thành điểm gặp gỡ, tâm tình đầu xuân.
Đó cũng chính là nơi lưu giữ và truyền bá nghệ thuật thưởng trà của người Việt. Người thưởng thức có rất nhiều sự lựa chọn: trà hoa sen, trà hoa nhài, trà hoa cúc, trà cung đình, long nhãn hồng táo trà,… Chúng được pha chế theo nhiều cách khác nhau để phù hợp và theo kịp với cuộc sống hiện đại: hồng trà nóng, hồng trà đá, hồng trà sữa,…
Bên cạnh đó, các loại trà thảo mộc cũng khá phổ biến với bốn vị cơ bản là ngọt, cay, đắng, chát. Không ít nơi, phong cách pha trà cầu kì, uống trà nhâm nhi đã dần được thay thế bằng việc thưởng thức nhứng túi trà lọc nhanh chóng, tiện lợi.
Dù ở thời điểm nào, thưởng trà không đơn thuần chỉ là thỏa mãn nhu cầu uống mà nó còn là nét văn hóa ứng xử. Đầu năm mới, ấm trà thơm nồng làm ấm lòng người, thay lời chúc vạn sự như ý. Bằng tách trà ấm nóng, gia chủ thể hiện lòng hiếu khách, thiện tình; và người khách cũng đáp lại tấm chân tình của người mời trà mà cởi mở, thổ lộ tâm tình.
Người tinh ý có thể nhận biết tình cảm, học vấn và xét đoán tâm lí người đối thoại khi dùng trà. Trước kia, trà được xem là thú vui tao nhã của những người lớn tuổi nhưng hiện nay, trà đang rất được giới trẻ quan tâm, tìm hiểu. Nghệ nhân Hoàng Anh Sướng cho biết, mỗi ngày, đặc biệt là vào những ngày nghỉ, cuối tuần, Hiên trà Trường Xuân thu hút cả trăm bạn trẻ đến thưởng trà và tìm hiểu về các loại trà, văn hóa uống trà.
“Cha tôi vẫn dạy, thưởng thức một chén trà mang phong cách Việt là việc mang nhiều ý nghĩa. Màu nước vàng sánh trong xanh, hương trà, hương hoa tự nhiên là hình ảnh Việt Nam với rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú. Vị đắng chát gợi lên nỗi vất vả, cần lao của người làm trà truyền thống. Hậu vị ngọt mát của trà chính là tâm hồn người Việt giàu tình nghĩa, thủy chung,” nghệ nhân Hoàng Anh Sướng nói.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét